Tiến hóa Ong

Ong trong tuyết (Ukraina)Ong chống lại sự tấn công của ong bắp cày.

Ong, giống như kiến, là một dạng đặc biệt của ong bắp cày. Tổ tiên của ong là ong bắp cày trong họ Crabronidae, và do đó chúng là loài săn các côn trùng khác. Sự thay đổi từ con mồi côn trùng sang phấn hoa có thể là kết quả của việc tiêu thụ các con mồi côn trùng mà các con mồi này cũng có mặt trong hoa và một phần của chúng bị dích phấn hoa khi chúng làm thức ăn cho ấu trùng của ong bắp cày. Kịch bản tiến hóa tương tự cũng thể hiện ở ong bắp cày trong họ vespoidea, các loài này thuộc nhóm "ong bắp cày phấn hoa" cũng liên quan đến tổ tiên săn mồi của chúng. Cho đến gần đây, hóa thạch ong không bị nén lâu đời nhất là Cretotrigona prisca trong hổ phách Jersey và có tuổi Creta, thuộc phân họ meliponine. Một hóa thạch ong được phát hiện gần đây trong chi Melittosphex được xem là "dòng tuyệt chủng của một nhánh các loài Apoidea lấy phấn hoa cùng cấp phân loại với ong hiện đại", và hóa thạch này có tuổi Creta sớm (~100 triệu năm).[1] Các đặc điểm phát sinh về hình thái của chúng ("apomorphies") thể hiện rõ ở ong, nhưng vẫn còn hai đặc điểm không thay đổi so với tổ tiên của chúng ("plesiomorphies") là chân (two giữa-tibial spurs, và a slender hind basitarsus), cho thấy tình trạng chuyển tiếp của chúng.

Những bông hoa được thụ phấn nhờ động vật sớm nhất được thực hiện bởi côn trùng như bọ cánh cứng, do đó các biểu hiện của sự thụ phấn được thể hiện rõ trước khi ong xuất hiện đầu tiên. Tính mới ở ong đó là "sự biệt hóa" là một nhóm chuyên làm việc thụ phấn, với những thay đổi về vật lý và ứng xử đã làm tăng khả năng thụ phấn đặc biệt của chúng, và nhìn chung chúng làm công việc này hiệu quả hơn so với bất kỳ loài côn trùng thụ phấn nào khác như bọ cánh cứng, ruồi, bướm và ong bắp cày phấn hoa. Sự xuất hiện của các chuyên gia thực vật này được tin là đã đưa đến sự tỏa nhánh thích nghi của thực vật có hoa, và đến lựot nó, ong cũng phát triển theo.

Trong số các nhóm ong còn sinh tồn, họ ong Colletidae theo truyền thống được xem là nhóm nguyên thủy nhất, và nhánh chị em với nó là những con ong còn lại. Tuy nhiên, trong thế kỷ XXI, một vài nhà nghiên cứu đã tuyên bố rằng Dasypodaidae là một nhóm cơ sở, các loài trong nhóm colletidae là kết quả của sự tiến hóa hội tụ, hơn là thể hiện tình trạng có dạng chung. Chủ đề này vẫn còn những bất đồng, và quan hệ phát sinh loài giữa các họ ong vẫn chưa được hiểu rõ.